Nhận biết
Khác với việc chậm nói của hội chứng tự kỷ, trẻ chậm nói đơn thuần có thể hiểu lời nói và thực hiện được một số mệnh lệnh đơn giản của người lớn. Trẻ mắc chứng chậm nói có nhiều biểu hiện khác nhau. Có trẻ chỉ phát ra những tiếng vô nghĩa, lặp đi lặp lại không dứt và không thể nói được một số từ đơn giản. Có trẻ phát âm rõ ràng nhưng chỉ nói những từ đơn, không có khả năng ghép hai từ hoặc hơn hai từ với nhau. Trẻ thường nói những từ đơn để bày tỏ nhu cầu và đối với một số từ ghép hai từ, trẻ chỉ nói được từ cuối của từ đó, thường gọi là kiểu nói vuốt đuôi.
Một số trẻ phát âm không rõ ràng nhưng lại có khả năng sử dụng từ và các cụm từ để diễn đạt thông tin giao tiếp, chẳng hạn như dùng ngôn ngữ một cách chính xác, gọi tên được nhu cầu, cảm xúc để người lớn đáp ứng.
Có trẻ phát âm tốt, nói được những câu tương đối dài nhưng lại không thể hiểu ngôn ngữ để trả lời hoặc đáp ứng mệnh lệnh của người lớn. Trẻ có thể đọc một đoạn thoại quảng cáo khá dài trên tivi, nói lại những câu nói mà người lớn chỉ dẫn khá chính xác, rõ ràng. Tuy nhiên, đó chỉ là khả năng nói một cách máy móc, tư duy về ngôn ngữ của trẻ không phát triển. Trẻ không có khả năng trả lời câu hỏi của người khác mà chỉ lặp lại câu hỏi một cách máy móc hoặc lặng im không đáp.
Can thiệp
Ngoại trừ những trường hợp trẻ chậm nói có nguyên nhân xuất phát từ những thương tổn thực thể như mất thính lực, dị tật cơ quan phát âm, chậm phát triển tâm thần ở những trường hợp khác, các bậc phụ huynh đều cố đi tìm câu trả lời cho việc chậm nói của con mình. Nhiều người tỏ ra ân hận và tự dằn vặt mình rồi dằn vặt nhau vì đã không để ý đầy đủ đến con: cho trẻ chơi một mình, giao con cho người giúp việc giữ, xa lánh, hắt hủi con, gia đình bất hòa làm tổn thương tâm lý trẻ... Đó không hẳn là những nguyên nhân khiến trẻ chậm nói mà chỉ là các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ. Các chuyên gia khuyên các bậc phụ huynh nên giúp trẻ tìm thấy ngôn ngữ hơn là việc tìm nguyên nhân của hiện tượng này để rồi lại hoang mang khi việc tìm hiểu ấy chệch hướng.
Hiện nay can thiệp đặc biệt là một biện pháp hiệu quả nhất trong việc điều trị chứng chậm nói ở trẻ em. Người ta cũng đang tiến hành tìm hiểu và áp dụng phương pháp PECS - hệ thống các phương tiện giao tiếp thông qua hình ảnh - để giúp những đối tượng gặp khó khăn trong việc sử dụng ngôn ngữ và giao tiếp.
Các bậc phụ huynh góp phần rất lớn trong việc can thiệp với trẻ chậm nói. Nhiều phụ huynh vẫn chưa hợp tác tốt với chuyên viên can thiệp trong việc điều trị ngôn ngữ cho trẻ, không quan tâm và phó mặc trẻ cho chuyên viên can thiệp. Cũng có phụ huynh quá bao bọc trẻ, không để trẻ tiếp xúc với môi trường xung quanh và tỏ ra e dè khi để trẻ ra môi trường bên ngoài mà không có mình. Đặc biệt, không ít phụ huynh tạo ra áp lực cho chuyên viên can thiệp, cho trẻ và cho bản thân khi đặt ra yêu cầu là trong một thời gian ngắn, trẻ có thể học phát âm và nói được như trẻ bình thường.
Can thiệp với trẻ chậm nói đòi hỏi một thời gian lâu dài, kiên trì và có sự hợp tác tốt giữa giáo viên và phụ huynh. Không phép mầu nào có thể xảy ra nếu không có sự nỗ lực không mệt mỏi của cả chuyên viên can thiệp lẫn các bậc phụ huynh.
(ThS LÊ MINH CÔNG - Phó Giám đốc Trung tâm Tâm lý học ứng dụng Sông Phố)
(Nguồn http://tuoitre.vn/chinh-tri-xa-hoi/song-khoe/487471/tre-cham-noi.html)
Các cột mốc ngôn ngữ
Đối với một trẻ phát triển ngôn ngữ bình thường, có một số cột mốc đáng ghi nhớ:
* 0-3 tháng tuổi: phát âm theo bản năng những âm thanh vô nghĩa
* 6 tháng: bắt đầu bập bẹ các âm môi như papa, mama...trẻ có thể nghe được và đã biết hóng chuyện.
* 12 tháng tuổi: nói được các từ đơn và thể hiện nhu cầu qua các từ đơn đó, có vốn khoảng 10 từ và chỉ được các đồ vật mà trẻ muốn.
* 18 tháng: vốn từ tăng lên 30-40 từ
* 2 tuổi: có vốn từ khoảng 200 từ và đa số là các danh từ
* 3 tuổi: vốn từ tăng lên nhanh chóng, khoảng 3.000-4.000 từ, nói được các câu ngắn.
So sánh với cột mốc trên, nếu trẻ 2 tuổi mà vẫn chưa biết nói thì được xếp vào dạng chậm nói
|